• :
  • :
Chào mừng bạn đến với cổng thông tin điện tử của UBND Xã Yên Nhân
A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Đền Bình Hải nơi linh thiêng ngàn năm

             

 Đền Bình Hải tên chữ là Bình Hải từ, ở phía Bắc làng Bình Hải, xã Yên Nhân, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình.

I. ĐỊA ĐIỂM PHÂN BỐ, ĐƯỜNG ĐI TỚI DI TÍCH

1. Địa điểm phân bố.

Theo Ngọc phả đền Bình Hải và gia phả các dòng họ Mai, dòng họ Phạm thôn Bình Hải, xã Yên Nhân hiện còn lưu giữ thì đền Bình Hải đã có từ thời xa xưa và thờ tướng đời vua Hùng Duệ Vương thứ 18 và tướng của Hai Bà Trưng đã có công đánh giặc ngoại xâm, bảo vệ non sông đất nước.

 

Thời Lê Sơ, vua Lê Thánh Tông cho đắp con đê ngăn nước mặn vùng bãi bồi ven biển, nhà vua đã đến đền Bình Hải tế các vị thần thờ ở đây

Cuối thời Lê, đền Bình Hải thuộc tổng Thổ Mật, huyện Yên Mô, phủ Trường Yên.

Thời Nguyễn, đời Minh Mạng đền Bình Hải thuộc đất xã Bình Hải, tổng Thổ Mật, huyện Yên Mô, phủ Yên Khánh, đạo Ninh Bình[

Sau cách mạng tháng 8 năm 1945, xã Bình Hải, Phương Nại, Trung Đồng, Yên Sư, Vĩnh Lộc và một số nhóm trại hợp lại để lập xã Yên Nhân, thuộc huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình.

Trong kháng chiến chống Pháp, đền Bình Hải thuộc thôn Bình Hải, xã Yên Nhân, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình.

Hòa Bình lập lại năm 1954 đến năm 1975 đền Bình Hải vẫn thuộc đất thôn Bình Hải, xã Yên Nhân, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình.

Trong các năm 1976, 1977 di tích đền Bình Hải thuộc thôn Bình Hải, xã Yên Nhân, huyện Tam Điệp, tỉnh Hà Nam Ninh (huyện Tam Điệp) được thành lập do xóa bỏ tên huyện Yên Mô để sáp nhập với một số xã của huyện Yên Khánh).

Từ tháng 12 năm 1991 đến nay di tích đền Bình Hải thuộc đất thôn Bình Hải, xã Yên Nhân, huyện Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình (tỉnh Hà Nam Ninh lại được tách ra thành hai tỉnh như cũ là Ninh Bình và Nam Hà vào ngày 24 tháng 12 năm 1991 theo nghị quyết của kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa 8 nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam).

2. Đường đi đến di tích.

Tới di tích đền Bình Hải, xã Yên Nhân, huyện Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình, có thể đi bằng hai đường chính:

- Đường bộ: Từ thị xã Ninh Bình theo quốc lộ 1A đi vào phía Thanh Hóa đến km số 10, rẽ tay trái theo trục đường 59b qua phố Ngò huyện lỵ Tam Điệp, qua ngã ba phố Lồng rẽ tay phải, qua cầu Bút xã Yên Mạc rẽ tay trái đi khoảng 2 km nữa là tới di tích đền Bình Hải.

Hoặc có thể đi tuyến đường khác, cũng từ thị xã Ninh Bình theo quốc lộ số 10 đi Phát Diệm đến km số 8 rẽ tay phảu theo trục đường huyện qua cầu Chàng tới phố Ngò, huyện lỵ Tam Điệp rẽ tay trái theo đường 59b sẽ tới được di tích.

- Đường thủy: Từ bến Non Nước thị xã Ninh Bình xuôi theo dòng sông Vân tới ngã ba cầu Yên 5 km, rẽ tay trái theo dòng sông Vạc khoảng 15 km rồi rẽ tay phải vào sông Thần Phù sẽ tới di tích đền Bình Hải.

Cả hai tuyến đường bộ và đường thủy từ tỉnh lỵ Ninh Bình tới di tích đền Bình Hải khoảng 24-25 km.

II. NHÂN VẬT LỊCH SỬ LIÊN QUAN TỚI DI TÍCH

Bản Ngọc phả hiện còn lưu ở đền Bình Hải cho biết đây là nơi thờ tướng giúp vua Hùng Duệ Vương thứ 18 đánh giặc ngoại xâm bảo vệ tổ quốc và ba vị tướng là ba anh em cùng cha, khác mẹ con vị tướng họ Bạch, đã anh dũng chiến đấu dưới cờ nghĩa của Hai Bà Trưng chống lại ách thống trị hà khắc của các viên quan Thái thú triều đại nhà Hán đối với nước Việt ta.

1. Vị tướng thời vua Hùng Duệ Vương thứ 18.

Theo Ngọc phả thì tướng thờ ở Bình Hải là Linh Công con ông Bạch Công và bà Tuyền Nương. Linh Công sinh ngày mồng 2 tháng 10 năm Nhâm Thìn dưới đời vua Hùng Duệ Vương thứ 18. Khi mới sinh ra cậu bé đã có những đường nét khác thường: mặt rồng, mắt phượng, hàm én mày ngài lại có trí thần thông. Đương lúc mới sinh, khí thiêng tới hương thơm tỏa ngào ngạt nên ông Bạch Công mới đặt tên cho con trai mình là Linh Công.

Năm Linh Công 20 tuổi cũng là lúc Thục Phán đem đại quân xâm lấn đất Việt của các vua Hùng. Thục Phán liên kết với các nước láng giềng đem tinh binh 100 vạn, ngựa 8000 con chia làm 5 đạo cùng tiến đánh Hùng Duệ Vương.

Vua Hùng Duệ Vương lo sợ lắm cho đòi các quan khách về triều cùng bày mưu, hiến kế người tài giỏi ra giúp đánh giặc giữ nước.

Linh Công được tiến cử lên vua, vua Hùng Duệ Vương mừng lắm cho sứ thần đi Hoan Châu triệu Linh Công về. Linh Công cùng Sơn Thánh bái lĩnh hùng binh 30 vạn, danh tướng 1000 viên đường đất phân đạo cùng đi đánh giặc. Linh Công đích thân chỉ huy đạo thủy quân Châu Hoan. Trước khi xuất quân ông cho giết trâu, mổ bò khao thưởng quân sĩ cùng dân chúng yên vui trong 3 ngày 3 đêm rồi mới ra quân. Trước sức mạnh đạp sóng Long-Kình quân Thục hoảng sợ chưa đánh đã tan. Tướng sĩ của Linh Công đã bắt và chém chết 9 tướng quân Thục, phá hủy hơn 100 chiến thuyền. Thắng trận Linh Công cùng quân sĩ trở về quốc đô ra mắt vua Hùng Duệ Vương. Người sau có thơ vịnh.

Quả nhiên xích kiếm đới Man khấu

Trúc bả liên Thành hiến quốc quân

Thiên cổ dĩ tiền Thiên cổ sự

Giả nhi tử giả quốc nhi thần

Dịch nghĩa thơ:

Thước gươm quyết đánh bắt giặc Man

Đem cả thành dài dâng vua nước

Công việc nghìn đời trở về trước

Đạo nhà là bầy tôi[3]

Bình quân Thục xong, Linh Công cùng Sơn Thánh đi thuyền rồng đến cửa bể Thần Phù, bỗng dưng phút chốc trời đất tối om, sóng bể ù ù dâng lên, muôn khoảng sấm sét ầm ầm nổi dậy Linh Công ảo hóa Giảo Long xuống bể. Hùng Duệ Vương được tin thương tiếc danh tiếng Linh Công đã phong tặng: Đại Hải Long Hầu Hiển Hách Đại vương Thượng đẳng thần rồi chuẩn cho dân lập đền thờ. Xuân Thu nhị kỳ đều tế lễ hương hỏa đến muôn đời.

Sau vài năm Thục chúa đưa thư cầu hòa, vua Hùng Duệ Vương ưng thuận nhường ngôi cho Thục chúa. Thục chúa lên ngôi, cảm ơn vua Hùng Duệ Vương rồi cho sửa sang miếu điện, phụng sự liệt thánh họ Hùng cùng sơn, thủy, Bách thần. Linh Công được gia phong mỹ tự: Hiển Hách Đại vương Tạc linh ứng sắc chỉ Thục vương ban rồi chuẩn cho dân phụng sự như cũ.

Trải Đinh-Lê-Lý-Trần đều linh ứng nên đều có gia phong.

Sau kháng chiến chống Minh thắng lợi năm 1427, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế lấy niên hiệu là Thuận Thiên cùng gia phong mỹ tự: Linh ứng Thiên Dong vũ Phụ Thượng đẳng thần[4]. Sắc chỉ vua ban cùng với 300 quan tiền xanh cho dân xã sửa sang lại miếu điện thờ: Hộ nước, giúp dân đảo vũ kỳ tài linh ứng. Các đời sau này cũng đều gia phong mỹ tự và hương khói bệ thờ.

Thời đại các vua Hùng dựng nước và giữ nước đã được lịch sử dân tộc ta khẳng định, về mặt lịch sử khoa học mà cốt lõi là vấn đề tư liệu thành văn của thời đại này rất khó khăn. Chủ yếu dựa vào những phát hiện Khảo cổ học và các loại hình văn hóa dân gian. Các vua Hùng có công dựng nước và giữ nước, các tướng lĩnh giúp vua Hùng giữ nước và dựng nước đều đáng được trân trọng, tôn kính và giữ gìn. Trên đất nước ta có nhiều nơi thờ tướng các vua Hùng. Đền Bình Hải cũng như nhiều nơi khác dù ở góc độ nào và trong điều kiện nào thì việc thờ các danh tướng giúp vua Hùng dựng nước và giữ nước có ý nghĩa lớn trong việc giáo dục truyền thống yêu làng quê, yêu tổ quốc, nhớ về cội nguồn của dân tộc cần được bảo tồn và tôn tạo để cho các thế hệ hôm nay và mai sau noi theo.

2. Ba vị tướng-ba anh em chiến đấu anh dũng dưới cờ nghĩa của Hai Bà Trưng.

Ngọc phả ở đền Bình Hải còn cho thấy tiểu sử và công đức của ba vị tướng là ba anh em ruột họ Bạch Công đã chiến đấu anh dũng dưới cờ nghĩa của Hai Bà Trưng chống lại ách thống trị tàn bạo của các viên quan Thái thú nhà Hán đối với nhân dân ta những năm đầu công nguyên.

Ông Bạch Hồng và vợ là Trương Thị Huyền vốn là thế gia nhân đức, Bạch Hồng là người giỏi võ nghệ, ông giữ chức quan Trưởng vùng Yên Mô ngày nay, ông không chút kiêu sa chỉ làm điều nhân đức nên được dân chúng khắp vùng ngợi khen và kính trọng là người tích gia đức ái. Ông bà Bạch Hồng sinh được người con trai khôi ngô tuấn tú, ông bà yêu lắm, đặt tên là Ngọc Công.

Ngọc Công 3 tuổi thì bà Trương Thị Huyền lâm bệnh mất. Mãn kỳ tang vợ ông Bạch Hồng lấy bà Thái Nương làm kế thất. Bà Thái Nương thờ chồng rất kính lại đối sử với Ngọc Công như con đẻ của mình. Ông bà Bạch Hồng-Thái Nương sinh được người con trai khôi ngô tuấn tú, ông bà đặt tên là Tú Công. Ba năm sau ông bà lại sinh được người con gái dáng điệu dịu dàng, nết na lại có nhan sắc tuyệt mẫu nên ông bà mừng vui khôn xiết, đặt tên là Tam Nương. Khi lớn lên đã kinh thuộc văn thơ Khổng Mạnh, lại giỏi cả võ nghệ Tôn-Ngô. Cả ba anh em được cha mẹ cho ăn học, đều là những người văn võ toàn tài mà Tam Nương là một trung nữ Trượng phu tuyệt hảo.

Thái thú Tô Định là kẻ tham tàn bạo ngược đã vu cho Bạch Hồng có mưu phản loạn nên ông đã bị hãm hại. Hận thù đã thôi thúc Ngọc Công cùng 2 em tìm mưu tính kế để trả nợ nước đền thù nhà.

Ngọn cờ nghĩa do Hai Bà Trưng phất cao đã thôi thúc ba anh em Ngọc Công cùng hội tụ để giết giặc cứu nước cứu nhà. Ngọc Công đem theo 10.000 quân binh cùng hàng trăm dân đinh, nữ đồ của Bình Hải chiến đấu dưới trướng của Hai Bà Trưng.

Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng khởi xướng đã nhanh chóng giành được thắng lợi, giải phóng 65 thành trì, Trưng Trắc xưng Vương, phong tặng cho em cùng tướng sĩ  tước cấp đẳng hạng.

Ngọc Công được phong tước Vương nguyên hưởng ấp lập ở Bình Hải.

Tú Công được phong chức Tả Phán quan đồ đài đại phu.

Tam Nương được phong là công chúa Phụng Thị ở Tả hửu.

Ngọc Công cùng hai em trở về Bình Hải lập đồn là đồn nội tiếp tục canh mặt Tây Nam đất nước.

Mỗi tháng vào ngày mùng 1 Ngọc Công đi chầu Trưng Vương, ngày 15 tổ chức lễ khai yến mời phụ lão cùng dân đinh trong vùng đến uống rượu mừng lộc nước được độc lập, ông còn miễn thuế binh dong cho dân Bình Hải, lại chia đất, ao, vườn cho mỗi nhà để làm ruộng hương hỏa. Dân Bình Hải và các vùng phụ cận đều đồng tâm bái tạ. Ba anh em Ngọc Công bách tuế hưởng thần. Ông đề thơ:

                            Nhất đương triều mục túy tinh thần

                            Vạn cổ huân cao nhất nhật tân

                            Trung thi hữu chung hoan ẩn ngữ

                            Tình lưu Bình Hải ức muôn xuân[5]

Dịch nghĩa:

             Tinh thần các vị triều mục cổ trên miếu đường

                              Hương hỏa muôn đời ngày thêm mới

                              Tuy là khi vui chén say nói mà dân Bình Hải vẫn nhớ ơn

                                         Các ngài đời đời được tươi tốt[6]

          Sau khi sang nhận chức Thái thú ở nước ta Sĩ Nhiếp đã cho xem xét lại dinh cũ, sử xưa của dòng họ Trưng Vương, tưởng đến anh khí thời bấy giờ mới cho lập miếu thờ ở dòng Hát Môn. Các nam thanh, nữ tướng cũng đều được gia phong mỹ tự. Bên làng Bình Hải lập miếu thờ các vị được phong tặng.

          Ngọc Công được phong là Bạch Ngọc Hùng Lược Đại Vương.

Tú Công được phong là: Lương Tú Phán Quan tăng tuấn tiết Phúc thần.

Tam Nương được phong là Nhan Phúc thần, lại chuẩn cho dân xã ấp Bình Hải phụng tự.

Trải qua các triều Đinh-Lê-Lý-Trần-Lê và sau này đều gia phong mỹ tự.

Để tỏ lòng tôn kính ba vị tướng thời Hai Bà Trưng có công giữ nước, dân xã ấp Bình Hải húy ba chữ Ngọc-Tư-Nha cùng các chữ húy về Thánh phụ và Thánh Mẫu.

Ngày kỵ giỗ đản ba vị, dân đều tế lễ, đó là các ngày:

Ngày 2 tháng 2 là ngày đản thần Đại vương Ngọc Công.

Ngày 10 tháng Chạp là ngày đản thần Phán Quan Tú Công.

Ngày 10 tháng Giêng là ngày đản Công chúa Tam Nương.

Ngày 10 tháng 7 là ngày 3 vị cùng hóa[7]

Cuộc khởi nghĩa do Hai Bà Trưng khởi xướng những năm đầu công nguyên là cuộc khởi nghĩa lớn của dân tộc ta. Các tướng lĩnh của cuộc khởi nghĩa hầu hết là phụ nữ. Điều này đã được lịch sử dân tộc ghi nhận công lao đánh giặc giữ nước của phụ nữ nước Việt ta.

Thời gian dài đất nước ta, dân tộc ta đã phải trải qua bao biến cố của lịch sử chắc rằng tư liệu trong cuốn thần phả ít nhiều thiếu phần sát thực. Đó cũng là một thực tế khách quan hoàn toàn mang tính khoa học. Mặc dù ở thời đại Hai Bà Trưng tư liệu lịch sử hoàn toàn không phải như thời các vua Hùng. Lúc đó sử sách đã ghi chép đầy đủ, có thể chúng ta ghi, có thể là đối phương ghi lại mà ta dùng những tư liệu ấy. Song, dù sao ở trong điều kiện nào, trong hoàn cảnh nào thì cuốn Thần phả ở đền Bình Hải cũng là cuốn Thần phả có những tư liệu quý, là cơ sở khoa học để xác định việc thờ cúng các vị tướng thời Hai Bà Trưng ở Bình Hải như bao nơi khác trên đất nước ta. Là sát thực cần được tôn trọng, bảo vệ và tu bổ để gìn giữ, phát huy tác dụng giáo dục tinh thần dân tộc trên cơ sở tình yêu làng xã, tình yêu tổ quốc cho các thế hệ hôm nay và mai sau, nhất là lớp trẻ thanh niên mà tiêu biểu là chị em phụ nữ trung hậu, đảm đang của thời đại ngày nay.

3. Trên là việc thờ cúng các vị danh tướng, danh thần có công với dân với nước

Song, điều có giá trị hiện thực với tác dụng giáo dục niềm tự hào về truyền thống văn hóa của quê hương góp vào kho tàng văn hóa của dân tộc là đền Bình Hải hiện còn bảo tồn được tương đối nhiều di vật quý trong các đồ thờ tự, khí cụ, nghệ thuật kiến trúc, trang trí các loại hình hoa văn mà chủ yếu là nghệ thuật tạo hình chất liệu bàng vôi vữa do chính các nghệ nhân Bình Hải xây đắp trải qua bao đời nay.

Đền Bình Hải tuy không lớn lắm nhưng được xây dựng khá vững chắc, đẹp nhìn cả về dáng điệu bên ngoài và đi sâu vào các chi tiêt trong nội tự.

Tổng thể ngoại hình của đền là cả một khối thể được các nghệ nhân tạo dựng một cách công phu thể hiện đôi bàn tay khéo léo, óc thẩm mỹ cao của người thợ tạo hình dựa trên sự tích của các vị danh tướng, danh thần được thwof cúng trong đền.

Từ Tam quan vào trong nhà Tiền đường tới Nội cung nghệ thuật trang trí đều dựa trên mẫu hình có liên quan đến sự tích các vị được thờ cúng đã được nhân dân tôn kính là thần linh ứng nghiệm, là Đại vương…các mẫu hình như: thuyền, gươm, giáo, đao, voi chiến, ngựa chiến, tứ linh, tứ quý…cùng nhiều đồ thờ tự, khí cụ khác đã được giữ gìn cẩn thận.

Đó cũng là điều rất quý của đền Bình Hải cần được bảo vệ, tu bổ và tôn tạo.

 DI TÍCH

1. Đền Bình Hải xây dựng trên khu đất cao ráo, thoáng đãng ở phía Bắc thôn Bình Hải, xã Yên Nhân, bên dòng sông Thần Phù. Đền quay hướng Đông Nam xa khu dân cư ở chừng 300 m. Phía Bắc đền là dòng sông Thần Phù, phía Nam và phía Tây là cánh đồng bát ngát, đất đai mầu mỡ của hai xã Yên Nhân và Yên Từ, phía Đông là khu dân cư Bình Hải ở. Đường dẫn tới đền là con đường đá nhở đôi chỗ còn lại dấu ấn của đường làng lát gạch nưh bao đường làng cổ khác của nước ta. Ban đầu có 3 cây gạo to, cao, đứng sừng sững từ xa đã nhìn thấy. Phía trước đền là hai cây xấu cành lá xum xuê. Từ phía huyện lị Yên Mô (cũ) nhìn về phía Nam giữa cánh đồng mênh mông nổi lên ngôi đền núp dưới tán lá những cây cổ thụ càng tôn thêm vẻ uy nghiêm của ngôi đền và dễ gây cho người dân nhiều cảm nghĩ về chốn thần đài linh nghiệm. Cái không gian bên ngoài cùng cảnh quan xung quanh khu đền là vậy. Đi sâu vào trong đền dễ nhận thấy đây là nơi thờ cúng tôn nghiêm và rất lấy làm khâm phục tài nghệ của những người xây dựng đền miếu.

Qua cổng lớn vào sân lát gạch là tới nhà Tiền bái (tiền đường). Đây là một trong những nhà tiền bái trang trí đẹp cả về các loại hình hoa văn và những đồ thờ tự-khí cụ. Nhà tiền bái cấu trúc hình vuông mỗi chiều 5m. Bồn mặt Đông-Tây-Nam-Bắc mỗi mặt dựng hai hàng cột, mỗi hàng 4 cột đỡ toàn bộ phần mái. Mái gồm hai tầng lợp ngói ống giả. Tầng trên đền đắp hình lưỡng long chầu nguyệt. Riêng mặt Đông Nam là mặt chính điện của đền, trên đỉnh nhà tiền bái đắp ba chữ lớn “Bình Hải Từ”, nét chữ cao tới 0,4m, thân nét chữ là cả một mảng các mảnh gồm màu men trắng ngà được gắn ghép vào nhau cùng tôn thêm vẻ đẹp uy nghiêm của ngôi đền.

Bốn đao góc tầng mái dưới đắp bốn con lân uốn mình chầu vào chính giữa đỉnh nóc nhà tiền bái. Phía trong 4 góc nhà tiền bái của hàng cột ngoài đắp hình 8 vị tiên cùng cảnh tứ quý hai bên, theo thứ tự từ trái sang phải đó là các vị: Lan Thái Hòa, Tào Quốc Cữu, Lý Thiết Hùng, Hà Tiên Cô (là nữ), Là Đồng Tâm, Trương Lý Tiền, Quả Lão Tiên và Thần tiên[8]. Ở chính giữa nhà tiền bái treo béc gấm thêu dệt dáng hình 8 vị tiên khá đẹp, nhưng tiếc rằng bức gấm ấy quá lâu nên đã bị rách đôi chỗ.

 

Hai bên nhà tiền bái là hai miếu nhỏ thờ tượng hai ông hộ pháp với dáng vẻ uy nghiêm đang đứng canh giữ nền của đền thờ thần linh. Trên nóc hai miếu hộ pháp trang trí cuốn thư có cảnh tứ linh, tứ quý. Sau nơi thờ hộ pháp là hai giải vũ, mỗi dãy 3 gian trang trí cảnh hồng, cúc, tùng, mai đang đua khoe sắc thắm. Tất cả các kiến trúc bên ngoài của đền Bình Hải đều dùng chất liệu vôi vữa, từ kèo cột, mái đỡ đến trang trí các hoa văn. Ngoài chất liệu vôi vữa ra không có chất liệu nào khác. Đó là điều đặc biệt của đền Bình Hải được cấu trúc, trang trí đẹp, nhẹ nhàng như vẫn ghi được vẻ uy nghiêm .

Nhà Tiền bái cũng là nơi bày các đồ thờ tự như bao đền khác. Xong ở đây còn giữ được một số đồ thờ tự khí cụ quý hiếm như: thuyền, súng, gươm, đao, lư nấu dấu đồng…

 Nhà Tiền bái và Trung đường cách nhau một khoảng trống 0,5m được cấu trúc hệ thống máng nước chắc chắn. Trung đường 5 gian, hai đầu nóc xây vít kín, phía trong tường hai đầu nhìn lại trang trí hình hai chim phượng mầu lông sặc sỡ đang xòe đôi cánh chúc đầu xuống như đang bay lượn trong không gian bao la. Hai bên tường chính diện Trung đường đắp đôi câu đối:

Toàn tá hùng chi, an bang hưng thịnh

Tận phù trưng chi nghĩa, cứu quốc trừ nguy

Dịch nghĩa: Một lòng giúp vua Hùng nước yên cường thịnh

                   Vì nghĩa cùng Bà Trưng cứu nước trừ nguy

          Nghiêm Thiết Việt nhi Tô binh lạc phá

          Trường can qua nhi Bắc Khẩu kinh hồn

Dịch nghĩa: Nghiêm Thiết Việt mà binh lính của Tô Định hồn siêu phách lạc

                   Bày can qua mà giặc phía Bắc kinh hồn

C. Hậu cung: Nối liền với Trung đường ở gian chính giữa gồm hai cấp tạo thành hình chuôi vồ, ba mặt Đông Tây và mặt sau là phía Bắc được xây vít kín.

Phía ngoài nội cung trên đỉnh nóc có bức đại tự sơn son thếp vàng “linh chung hải hà” (sông biển chung đức linh thiêng) và 4 câu đối, 2 câu đắp bằng vôi vữa, 2 bằng gỗ sơn son thếp vàng, nét chữ khảm trai khá đẹp:

Hùng đại trung triều lưu thánh tích

Bình dân Hải nội ngưỡng thần lưu

Dịch nghĩa: Lưu truyền thánh đức (tích) đời (vua) Hùng triều (Bà) Trưng

                   Dân Bình Hải ngưỡng vọng (sự) giúp đỡ (của) thần

          Bảo ngã lê dân tử tôn xuân phong hỏa cứu

          Phù Ngô hoang xã tắc bàn thạch Thái sơn

Dịch nghĩa: Bảo vệ, giúp đỡ dân ta, con cháu (như) gió mùa xuân

                   Phù hộ vua nước nhà vững vàng như bàn thạch

          Chính giữa bệ thờ phía ngoài nội cung còn một bát hương bằng đá chạm khắc hình lưỡng long chầu nguyệt, đường nét chạm khắc khá tinh xảo, đường kính mặt trên tới 40 cm, cao 50 cm. Đây là một trong những bát hương đá tương đối lớn và đẹp.

          Phía trong cùng Hậu cung xây đắp ba bậc lên xuống ở hai bên, giữa đặt cỗ ngai, bài vị thờ các vị thần trong đền. Trong số các cỗ ngai, bài vị ấy hiện còn 3 cỗ ngai, bài vị dưới thời Hậu Lê thờ ba vị tướng thời Hai Bà Trưng.

          2. Đồ thờ tự - khí cụ:

          Đền Bình Hải hiện còn lưu giữ được khá nhiều đồ thờ tự-khí cụ quý và hiếm. Qua khảo sát thực tế cho thấy hiện có 30 loại hình đồ thờ tự với 71 hiện vật từ câu đối, đại tự đến loại hiếm như thuyền, súng, hàm răng cá, vỏ trấu…

          Trong số những đồ thờ tự-khí cụ ấy đáng lưu ý có một số sau:

          Thuyền sơn son thếp vàng, đây là chiếc thuyền duy nhất hiện giờ chúng tôi thấy được ở khu vực Ninh Bình và có lẽ cả ở khu vực Hà Nam Ninh nữa. thuyền có chiều dài 1,4m, rộng nhất 0,40m, lòng sâu 0,25m, hai bên mũi thuyền trang trí hoa văn hình sóng nước. Thuyền làm bằng gỗ mỏng, dáng điệu không phải là thuyền rồng, cũng không phải là thuyền chiếc, có lẽ đây là thuyền dựa theo thần tích Ngọc Công thờ trong đền.

          Bình Hải là vùng đất bồi ven biển thời xa xưa, lại gần kề cửa Thần Phù, chỉ cách 1,500m, theo đường chim bay, cửa Thần Phù là một địa danh lịch sử đã được ghi chép từ lâu.

          Tại Thần Phù hiện còn đền thờ Áp Lãng Chân Nhân- La Viện đã đạp sóng Nghê-Kình ở cửa thần Đầu, giúp vua Hùng đi nam chinh, khi trở về mất ở dọc đường, vua Hùng cho lập đền thờ phong hiệu là Áp Lãng Chân Nhân, hiện nay trong đền còn đôi câu đối:

          Kình hải thiếp ba đào anh linh vạn cổ

          Hồng dân hi đài việc chiêm ngưỡng thiên thu

Tạm dịch:

          Uy linh muôn thuở lưu truyền,

          Trấn trị sóng kình yên phẳng lặng

          Chiêm ngưỡng nghìn thu như tại, dân hồng ca khúc thọ trường xuân

          Năm 43 sau công nguyên lão tướng Mã Viện sai quân đào sông qua dãy núi để tránh sóng to gió lớn của cửa Thần Phù mà thư tịch cổ gọi là Tạc Khẩu để tiến quân vào Cửu Chân đàn áp cuộc khởi nghĩa của lão tướng Đô Dương.

          Năm 1005 sau khi Đinh Tiên Hoàng mất, Ngô Nhật Khánh cùng quân Chiêm Thành tiến quân ra định đánh úp kinh thành Hoa Lư nhưng bị sóng to gió lớn của cửa Thần Phù đánh tan chiếm thuyền, Nhật Khánh chết đuối, chúa Chiêm thoát chết phải kéo quân về.

          Vua Lý Thánh Tông đem binh quyền đi đánh Chiêm Thành, đến cửa Thần Phù gặp sóng to gió lớn, vua thân chinh đến đền Áp Lãng Chân Nhân cầu đảo, đêm ấy gió yên sóng lặng, đến sáng thuyền nhổ neo tiến vào Cửu Chân…

          Việc thờ thuyền ở đền Bình Hải có lẽ xuất phát từ thực tế và những truyền thuyết về cửa biển Thần Phù như lịch sử đã ghi lại. Đây là tư liệu quý giúp vào việc tìm hiểu địa danh lịch sử cửa biển Thần Phù mà đền Bình Hải còn lưu giữ được.

          Ba khẩu súng nòng dài làm bằng gỗ sơn son thếp vàng, hai thanh gươm bằng gỗ sơn son thếp vàng.

Kiệu gỗ sơn son thếp vàng, cấu trúc và trang trí mang yếu tố Nguyễn như đầu rồng, đai kiệu.

Mũ là đồng (mũ quan võ) 1 chiếc, hài đồng cổ 1 đôi.

Lộc bình cổ trang trí phù dung chim trĩ, 4 đôi, cao 70 cm.

Một hàng răng cá mập nặng 2,8 kg, chiều dài 20cm, mặt trên hình tăng cưa sâu độ 1cm. Đây là di vật hiếm tìm thấy trong lòng đất đền Bình Hải. Qua nghiên cứu bước đầu cho thấy đây có thể là hàm răng của loài các kình rất hung dữ sống ở vùng biển Thần Phù-Chính Đại xưa.

Một lư nấu dấu bằng đồng và tiền đồng có niên hiệu Khai Nguyên.

Một số đồ thờ tự-khí cụ đáng lưu ý trên phản ảnh phần nào sự tích Ngọc Công, Tú Công, Tam Nương trong thần phả hiện còn lưu giữ ở đền càng làm sáng tỏ cái cốt lõi của thần tích ấy.

Ngoài đồ thờ tự-khí cụ ra đền Bình Hải còn lưu giữ được khá nhiều sắc phong câu đối, đại tự, bài vị cùng thần tích thần phả. Câu đối tổng cộng 20 câu, đại tự 2 bức, sắc phong 22 đạo sớm nhất là năm Cảnh Hưng thứ 44 (1783), muộn nhất là năm Khải Định thứ 9 (1924), thẩn phả 2 quyển, một quyển nói về tướng vua Hùng Duệ Vương, một quyển nói về tướng Hai Bà Trưng hiện thờ ở đền.

 III TÌNH TRẠNG DI TÍCH

Đền Bình Hải là di tích được xây dựng từ khá lâu. Theo thần phả đền được xây dựng vào thời Lê[9]. Trải qua năm tháng, phần bị hủy hoại do thời gian, do chiến tranh, phần bị sự hiểu lệch lạc của con người, do một số lợi dụng vào dấu linh của di tích đã làm những điều chưa đúng nên một thời gian dài đền bị hủy hoại nghiêm trọng. Tuy vậy, đền đã được tu sửa nhiều lần, lần mới nhất dưới thời Minh Mạng, hòa bình lặp lại (7/1954) dân của xã Bình Hải, Yên Nhân lại tu sửa đền miếu.

Những năm gần đây, được sự giúp đỡ của các cấp chính quyền địa phương, nhân dân Bình Hải, Yên Nhân lại tiếp tục tu sửa, tôn tạo nơi thờ tự, bỏ nhiều công sức sưu tầm các đồ thờ tự, tư liệu đền miếu quê hương mình để lấy nơi cho dân xã và các vùng lân cận đến cầu nguyện, tưởng nhớ tới công đức của các vị được tôn thờ trong đền.

Hệ thống tường bao xung quanh bảo vệ cho đền đã được xây dựng vững chắc sạch đẹp.

Tiền đường, Trung đường và Hậu cung cũng được tu sửa lại thoáng đẹp, vững chắc.

Các đồ thờ tự được sưu tầm, tư liệu lịch sử, kể cả tư liệu Hán Nôm được bảo tồn, phiên âm, dịch nghĩa ra tiếng Việt để mọi người hiểu rõ lai lịch của ngôi đền. Thần tích, thần phả, câu đối, đại tự cũng được sưu tầm, sửa chữa. Nhất là câu đối, các bức đại tự chỗ nào hư hỏng, chữ bị mờ đã được sửa chữa lại.

Có thể nhận xét được rằng: Nhìn cả về tổng thể bên ngoài và các chi tiết cụ thể ở bên trong thì đền Bình Hải, xã Yên Nhân, huyện Tam Điệp đã được tu sửa, tôn tạo với lòng thành kính của nhân dân trong xã, dân các xã quanh vùng và con cháu Bình Hải, Yên Nhân đang sinh sống và làm việc ở mọi miền trên đất nước ta[10]. Đó là lần tu sửa, tôn tạo với quy mô khá lớn vào đầu năm Nhân Thân 1992.

Các đồ thờ tự-khí cụ đã được sưu tầm, bảo quản như thuyền, súng, gươm, hàm răng cá, vỏ trấu…Ngoài ra một số đồ thờ tự khác cũng được tu sửa như câu đối ở nhà Tiền đường, đặc biệt các bài vị, cỗ ngai thờ Hậu Lê thờ ở Hậu cung được bảo quản chu đáo, cẩn thận. Đó là di vật hiếm của đền. Đã có một thời kẻ gian thường vào lục soát lấy đi những đồ thờ tự cổ quý và hiếm.

Hệ thống mái che đỡ của nhà Tiền bái, nhà giải vũ, trung đường, Hậu cung đã được tu bổ, sửa sang lại cẩn thận, vững chắc. Các họa tiết trang trí được tôn tạo tu bổ và bồi trúc đường nét, màu sắc thêm tươi đẹp, sáng sủa.

Đứng từ xa, khách thập phương về tưởng niệm công đức của các vị thần linh thờ trong đền đã nhìn rõ cả một khối thể bên ngoài rực rỡ cảnh sắc trang trí các họa tiết từ rồng, phượng, lân, quy đến tùng, cúc, hồng, mai, tất cả đều rực rỡ cảnh sắc của mỗi loài, mỗi vật.

Cảnh đền được tu sửa, tôn tạo thoáng đãng, sạch đẹp nhưng vẫn giữ được dáng điệu của ngôi đền cổ, không làm phương hại tới kiến trúc xưa. Đó cũng là nét riêng của đền Bình Hải vừa được nhân dân trong xã và các xã lân cận thành tâm nguyện ý góp công, góp sức vào nơi thần đường linh ứng đã có từ xưa.

IV. GIÁ TRỊ CỦA DI TÍCH

Căn cứ vào kiến trúc nội, ngoại thất cùng những đồ thờ-khí cụ của đền Bình Hải, sau khi nghiên cứu những sự kiện và nhân vật thờ có liên quan đến di tích thì đền Bình Hải thuộc loại hình di tích lịch sử-văn hóa.

Nhân vật lịch sử thờ trong đền là tướng của vua Hùng Duệ Vương có công dựng nước và giữ nước, tướng của Hai Bà Trưng đánh giặc giữ gìn non sông đất Việt. Đối với vùng quê Ninh Bình những nơi thờ tướng Hai Bà Trưng và nhất là tướng của các vua Hùng không có nhiều. Bình Hải-Yên Nhân là vùng ven biển xưa kia lại gần kề cửa Thần Phù-Chính Đại, chỉ cách 1,5m theo đường chim bay, cách đây 2000 năm có tên là Tạo Khẩu mà lão tướng Mã Viện sang đàn áp Hoan Châu (tức tỉnh Nghệ An ngày nay), đã cho kè đá ngăn sóng giữ Nghê-Kình để thủy quân vượt qua như sử sách đã ghi chép. Căn cứ vào đó Đông Các đại học sĩ thần Nguyễn Bính phụng soạn thần phả của đền để lại cho tới ngày nay. Tuy thời gian dài các nhân vật lịch sử dựa vào thần tích, thần phả song dù sao đó cũng là những nhân vật có giá trị giáo dục tinh thần dân tộc, truyền thống yêu làng xã, yêu nước và đức độ đối với dân cho các thế hệ hôm nay và mai sau.

Văn hóa là khái niệm khá rộng. Ở đây chỉ giới hạn trong một phạm vi nhất định của khái niệm đó. Đền Bình Hải còn lưu giữ được khá nhiều đồ thờ tự-khí cụ. Nghệ thuật chạm khắc, kiến trúc, trang trí các loại hình hoa văn trong đền thể hiện đôi bàn tay khéo léo, óc thẩm mỹ cao của các nghệ nhân Bình Hải, nhất là nghề trang trí nề vôi vữa, bồi trúc trên tường, trên khoảng không nóc đình, chùa, nhà thờ…mà lớp cháu con thợ Bình Hải đã làm như: nhà thờ Phú Nhai (Xuân Thủy, Nam Hà), nhà Tràng Phúc Nhạc, huyện Yên Khánh (cũ); khu thánh đường Phát Diệm, huyện Kim Sơn; đình thôn Cốc Nga Sơn, Thanh Hóa…

Đền Bình Hải không chỉ có ảnh hưởng tốt về lịch sử văn hóa mà còn giữ được những phong tục trong các kỳ lễ hội như: tục sám hối, tục ấp cỗ gà trong ngày mất của 3 vị thần họ Bạch. Cứ cách từ 3-5 năm làng lại làm lễ chay sám hối một lần, mỗi lần tổ chức trong 3 ngày, 3 đêm.

Lễ hội đền Bình Hải là dịp khách các nơi về vãn cảnh, cầu nguyện cho bao điều tốt lành đến với họ. Mấy năm gần đây, khách ở Hải Phòng, Quảng Ninh, Thái Bình, Thanh Hóa, Nghệ An và cả trong nam như: Sài Gòn, Nha Trang…cũng ra dự lễ. Điều đó thể hiện ở mức độ nhất định, ảnh hưởng của di tích đối với nhân dân trong mọi tầng lớp xã hội là rất lớn. Thực tế đã chứng minh cho sử sách ghi chép lịch sử linh thiêng ứng nghiệm mà Đại Nam nhất thống chí (mục Nghệ An chí), Ninh Bình tỉnh chỉ[11]…cũng đã đề cập đến đền Bình Hải thờ Tứ Hải đại vương.


[1] Bản dịch Hán Nôm, hiện lưu tại đền Bình Hải và theo nhân dân ở đây còn lưu truyền lại.

[2] Năm Minh Mạng thứ 2 (1821) đổi phủ Trường Yên thành phủ Yên Khánh. Năm Minh Mạng thứ 3 (1922) đổi đạo Thanh Bình thành đạo Ninh Bình. Năm (1828) đổi đạo Ninh bình thành trấn Ninh Bình và năm 1931 đổi trấn Ninh Bình thành tỉnh Ninh Bình.

[3] Theo Ngọc phả đền Bình Hải, dịch thơ do cụ Mai Văn Thắng 78 tuổi ở thôn Bình Hải, xã Yên Nhân dịch.

[4] Thần phả do Đông Các đại học sĩ thần Nguyễn Bính soạn năm Hồng Phúc thứ nhất (1572) và do quản giám bách thần tri điện hùng lĩnh thiếu khanh, thần Nguyễn Hiền phụng sao năm Vĩnh Hựu thứ 2 (1736).

[5] Dẫn trong Ngọc phả Tam vị Đại vương hiện lưu tại đền Bình Hải

[6] Cụ Nguyễn Văn Thắng 70 tuổi ở thôn Bình Hải dịch nghĩa thơ và có lẽ người đời sau làm bài thơ này.

[7] Theo Ngọc phả đền Bình Hải (tư liệu đã dẫn)

[8] Có ý kiến cho 8 vị tiên là: Hán Trung Ly (Trung Ly Quyền), Trương Quả Lão, Lý Thiết Quái, Lan Thái Hòa, Lã Đồng Tân, Tào Quốc Cữu, Hà Tiên Cô, Hàn Tương Tử.

[9] Thần phả không ghi rõ đời vua nào, chỉ ghi là vua Lê Thánh Tông cho đắp đê ngăn nước mặn có vào bái yết thần linh ở đây.

[10] Ở đền còn lưu bảng kê danh sách các vị cúng tiến, công đức

[11] Đại Nam nhất thống chí: Nhà xuất bản Khoa học xã hội Hà Nội, 1976, trang 223; Ninh Bình tỉnh chí bản đánh máy lưu tại ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Ninh Bình.

                                                                                                                                                                                                                                                                 Phạm Văn Thưởng - VHTT xã


Tổng số điểm của bài viết là: 36 trong 36 đánh giá
Click để đánh giá bài viết